Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2016

Chia sẻ với bạn về cái chết của First Solar

Nhìn lại bức tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của TP.HCM hay nói rộng hơn là Việt Nam, trong hơn 4 năm trở lại đây, đa phần các dự án có vốn đăng ký tỷ đô đều đã lần lượt rơi rụng. Lẽ dĩ nhiên, không loại trừ nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động đến chiến lược của NĐT.
Dự án của First Solar tại Củ Chi
Hiện tượng First Solar

Ngày 4/11/2011, Tập đoàn First Solar (Mỹ) phát đi thông cáo “tạm hoãn” ngay trong năm, sau 10 tháng được UBND TP.HCM cấp phép. Nhiều luồng thông tin đồn đoán, hoặc First Solar sẽ rút khỏi thị trường Việt Nam, hoặc nhà sản xuất pin năng lượng mặt trời này sẽ thu hẹp quy mô nhà máy đặt tại Khu công nghiệp (KCN) Đông Nam.
Còn nhớ, ông Tymen DeJong, Phó chủ tịch cấp cao Bộ phận sản xuất của Tập đoàn First Solar đã giải thích, do sự mất cân bằng cung - cầu về năng lượng Mặt trời trên thị trường toàn cầu nên tập đoàn này rất tiếc phải thông báo rằng, nhà máy First Solar tại KCN Đông Nam sẽ tạm hoãn việc sản xuất cho đến khi nhu cầu thị trường cần thêm nguồn cung từ nhà máy này. 

Tuy nhiên, những ngày đầu tháng 7/2012, dự án sản xuất pin năng lượng mặt trời lại khiến thị trường xôn xao khi nhà tư vấn bất động sản của Mỹ, Cushman & Wakefield lên tiếng, họ đang đại diện cho First Solar để tìm nhà đầu tư (NĐT) mua lại nhà máy, hay nói đúng hơn là nhà xưởng. 

Như vậy, thay vì đưa giai đoạn 1 của dự án đi vào sản xuất thương mại như lịch trình vạch sẵn trong giấy phép thì động thái này của First Solar xem như một lời chia tay với thị trường Việt Nam. Điều này sẽ không mấy bất ngờ với những ai theo dõi thông tin thường xuyên được phát đi từ Tập đoàn này, trước đó, trong bảng báo cáo quý I/2012 của First Solar cũng đã nhấn mạnh, họ đang trong quá trình cơ cấu lại năng lực sản xuất. 

Không riêng gì Việt Nam, Tập đoàn cũng đã tạm hoãn việc xây dựng nhà máy tại Arizona (Mỹ) và nhà máy với 2 dây chuyền sản xuất tại Pháp.
Báo cáo của First Solar còn cho biết, tháng 3/2012, nhà máy tại Việt Nam được tổ chức để bán. Và cũng tính đến tháng 3, họ đã thiệt hại khoảng 92,2 triệu USD cho nhà máy, trong đó, chỉ tính trong 3 tháng đầu 2012, con số này là 29 triệu USD.
First Solar mong muốn sẽ hoàn tất việc bán nhà máy trong vòng 12 tháng tới, nhưng giá bán sẽ thấp hơn đáng kể so với chi phí xây dựng mà họ đã bỏ ra. Cụ thể, nhà xưởng mà First Solar đang rao bán bao gồm 113.000 m2, trong đó có 107.000m2 dành cho sản xuất công nghiệp (khu sản xuất và khu logistics), cùng 6.000m2 diện tích cao ốc văn phòng. 

Bức tranh thu hút các “ông lớn”

Trên thực tế, First Solar không phải là trường hợp “cá biệt”, bởi không ít dự án trong lĩnh vực công nghệ cao đã đối diện với nhiều trở ngại khi đến với thị trường Việt Nam, trong đó có cả lý do chủ và khách quan.
Ngay như trường hợp của First Solar, do những tính toán sai lầm về nguồn cầu điện Mặt trời trên thế giới, dẫn đến việc liên tục đưa ra các kế hoạch mở rộng nhà máy và gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các nhà sản xuất pin năng lượng Mặt trời của Trung Quốc... mà CEO Rob Gillette của họ đã bị sa thải hồi quý IV/2011.
Không xuất phát từ nguyên nhân dự đoán sai, dự án Công viên Phần mềm Thủ Thiêm, quận 2, TP.HCM, liên doanh giữa Tập đoàn Teco, Đài Loan với Công ty CP Công nghệ Viễn thông Sài Gòn, Việt Nam làm chủ đầu tư, với tổng vốn đăng ký lên đến 1,2 tỷ USD lại bị thu hồi năm 2011, do chậm triển khai (khởi công từ năm 2008), cũng như giữa Thành phố lẫn nhà đầu tư không tìm được tiếng nói chung. 

Nhìn lại bức tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của TP.HCM hay nói rộng hơn là Việt Nam, trong hơn 4 năm trở lại đây, đa phần các dự án có vốn đăng ký tỷ đô đều đã lần lượt rơi rụng. Lẽ dĩ nhiên, không loại trừ nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động đến chiến lược của NĐT.
Liên quan đến vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh nhấn mạnh, đã có hiện tượng NĐT nước ngoài cố đánh bóng tên tuổi, sau một thời gian thì lộ diện về thực lực, dẫn đến dự án chậm triển khai, chuyển nhượng dự án... nhưng điều này chỉ xảy ra ở một vài trường hợp. Để ngăn chặn, chúng ta cần áp dụng những thông lệ quốc tế, trong đó, NĐT phải thực hiện ký gửi (đặt cọc) khi tham gia dự án.
Ngoài ra, để nắm được thông tin rõ về NĐT, cấp địa phương cần kết hợp với các cơ quan trung ương. Hơn nữa, Việt Nam phải xây dựng hàng rào kỹ thuật để chọn những doanh nghiệp có năng lực, cam kết đầu tư nghiêm túc và sử dụng công nghệ cao. 

Tuy nhiên, chuyện đi hay ở không chỉ nằm ở bản thân NĐT, bởi vẫn có những dự án lớn, NĐT đủ năng lực nhưng “nội lực” của thị trường Việt Nam chưa “đua kịp”.
Trong đó, Intel là một ví dụ điển hình. Tại buổi gặp gỡ giữa lãnh đạo TP.HCM và đoàn hơn 30 doanh nghiệp Mỹ đầu năm nay, phía Thành phố cũng nhìn nhận, nhà máy của Intel (tại Khu công nghệ cao TP.HCM) không chỉ góp vào ngân sách Thành phố hơn 13 triệu USD mà sẽ tạo việc làm cho 750 lao động (khi hoàn tất giải ngân).
Xét về mặt hiệu quả đầu tư, sản phẩm tại nhà máy Intel Việt Nam có tỷ lệ hao hụt thấp nhất trong 7 nhà máy của Intel trên toàn cầu. Song, trở ngại lớn nhất của Intel trong việc mở rộng tại đây là nguồn nhân lực, chủ yếu là trình độ ngoại ngữ lẫn kỹ năng của sinh viên Việt Nam vẫn khiến nhà đầu tư mất khá nhiều thời gian để đào tạo.
Không bàn sâu về mức độ giải ngân của Intel, trong cuộc trao đổi bên lề buổi gặp, ông Herb Cochran, Giám đốc Điều hành AmCham Việt Nam, cho rằng, con số 1 tỷ USD không phải nhỏ, với một NĐT uy tín như Intel, chuyện giải ngân như thế nào và các quyết định đầu tư chắc chắn phải được cân nhắc kỹ càng.

Tìm hiểu câu chuyện khó xoay xở trả nợ ngân hàng

Theo Phó tổng giám đốc Ngân hàng OCB, ông Phạm Linh, trong bối cảnh hiện nay, với các khoản vay rủi ro, ngân hàng sẽ thận trọng khi xem xét rót vốn. “Vốn của ngân hàng được huy động từ dân và phải trả lãi cho người gửi tiền, nên việc cho vay cũng phải được cân nhắc kỹ để tránh tối đa rủi ro nợ xấu”, ông Linh nói.
Khi hàng tồn kho chưa giảm và đầu ra sản phẩm chưa được khơi thông do sức mua thị trường yếu, thì dù lãi suất các khoản vay cũ có giảm xuống, doanh nghiệp vẫn khó xoay xở trả nợ ngân hàng.
Cái khó nhất với doanh nghiệp là tìm đầu ra cho sản phẩm
Lãi suất cao, hàng tồn kho lớn, doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn vốn để đầu tư sản xuất, giải phóng hàng tồn kho và trả nợ... là những nguyên nhân khiến nợ xấu gia tăng trong 6 tháng đầu năm 2012.
Vì vậy, tại Hội nghị Sơ kết 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm ngành ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo giảm lãi suất các khoản vay cũ xuống dưới 15%/năm, để giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp và hạ thấp tỷ lệ nợ xấu.
Tổng giám đốc một doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Bình Dương cho biết, đầu năm 2011, doanh nghiệp ký hợp đồng vay vốn của một ngân hàng thương mại, với thời hạn vay là 1 năm.
Lãi suất vay khi ký hợp đồng là 18%/năm, nhưng sau đó được điều chỉnh tăng lên theo từng thời kỳ (3 hoặc 6 tháng) như thoả thuận trước đó.
Cùng với đó, thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là châu Âu và Mỹ gặp nhiều khó khăn, đầu ra sản phẩm của công ty bị thu hẹp, hàng tồn kho gia tăng.
Tình cảnh này khiến công ty rất khó trả nợ được khoản vay trên cho ngân hàng, dù lãi suất có được điều chỉnh xuống còn 15%/năm từ ngày 15/7 tới.
Không chỉ doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nêu trên, mà nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa khác cũng đang đối mặt với tình trạng đình đốn trong sản xuất, kinh doanh, nên rất khó trả được nợ cũ cho ngân hàng.
Các doanh nghiệp cho rằng, họ cần được hỗ trợ vốn mới để duy trì sản xuất, kinh doanh, từ đó mới có thể trả được nợ cũ cho ngân hàng.
Ông Diệp Thành Kiệt, Phó chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam cho rằng, cái khó nhất đối với các doanh nghiệp hiện nay vẫn là đầu ra của sản phẩm.
“Chủ trương giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước là đúng đắn, nhưng lúc này, điều quan trọng hơn với các doanh nghiệp là làm sao khơi thông được sức mua của thị trường, thì mới có thể giải quyết được nợ nần cho ngân hàng”, ông Kiệt nói.
Cũng theo ông Kiệt, hiện một số thành viên của Hiệp hội có hợp đồng, dự án, nhưng cạn tài sản thế chấp, nên không thể vay vốn để tiếp tục sản xuất, kinh doanh.
Trên thực tế, nhiều ngân hàng đã điều chỉnh lãi suất cho vay VND đối với khoản vay cũ của doanh nghiệp xuống dưới cả mức 15%/năm mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu.
Tại Ngân hàng Eximbank, ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Ngân hàng cho biết, không phải đến thời điểm này, mà trước đó, Eximbank đã giảm dần lãi suất vay cho khách hàng khi đến thời kỳ điều chỉnh.
Lãi suất cho vay VND thấp nhất hiện nay tại Eximbank chỉ còn xoay quanh mức 12%/năm. Đồng thời, Eximbank còn có chương trình vay VND theo lãi suất ngoại tệ chỉ ở mức 7%/năm.
Tuy nhiên, cái khó của các doanh nghiệp là, ngân hàng không những không nới điều kiện cho vay mà còn siết chặt hơn, bởi lo ngại nợ xấu gia tăng, phải trích lập quỹ dự phòng, ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Theo Phó tổng giám đốc Ngân hàng OCB, ông Phạm Linh, trong bối cảnh hiện nay, với các khoản vay rủi ro, ngân hàng sẽ thận trọng khi xem xét rót vốn. “Vốn của ngân hàng được huy động từ dân và phải trả lãi cho người gửi tiền, nên việc cho vay cũng phải được cân nhắc kỹ để tránh tối đa rủi ro nợ xấu”, ông Linh nói.
Hơn nữa, về điều kiện để cho doanh nghiệp vay vốn, các ngân hàng phải thực hiện theo quy chế của Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng chỉ có thể xem xét hỗ trợ doanh nghiệp vốn, lãi suất hoặc các chính sách vốn…, chứ không thể nới tiêu chí cho vay.
Trên thực tế, từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều giải pháp như: hạ lãi suất, cho phép gia hạn nợ, tái cơ cấu nợ..., nhằm giải quyết tình trạng tín dụng âm, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhưng xem ra các giải pháp vẫn chưa có tác dụng rõ rệt.
Một thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, nếu giảm lãi suất, nhưng không có giải pháp giúp doanh nghiệp trả nợ cũ thì chưa hẳn đã thành công.
Cách tốt nhất để giảm tỷ lệ nợ xấu là ngân hàng phải khoanh vùng khách hàng, nếu doanh nghiệp có dự án khả thi, thì ngân hàng nên mạnh dạn cho vay. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng phải phối hợp chặt chẽ với ngân hàng trong việc trả nợ vay.

Cùng tìm hiểu Vàng có phá vỡ quy luật

Theo các chuyên gia kinh doanh vàng, một trong những yếu tố tác động làm giá vàng thường tăng vào cuối năm là do nhu cầu vàng giao ngay thường tăng vào quý IV của năm khi các nhà sản xuất nữ trang mua dự trữ chuẩn bị cho mùa cưới và các kỳ nghỉ lễ, đặc biệt tại Ấn Độ - nước tiêu thụ vàng nữ trang lớn nhất thế giới.
Một trong những yếu tố tác động làm giá vàng thường tăng vào cuối năm là nhu cầu tăng vào quý IV của năm, khi các nhà sản xuất nữ trang mua dự trữ chuẩn bị cho mùa cưới và các kỳ nghỉ lễ.
Với đà tăng giá mạnh của vàng trong 2 năm trước, năm 2012 nhiều chuyên gia vẫn kỳ vọng, giá vàng có thể lập thêm kỷ lục mới.
Nhưng đến nay, đã già nửa chặng đường của năm con Rồng mà giá vàng vẫn chưa “thăng hoa”, trái lại, còn có dấu hiệu đi xuống, từ mức trên 43 triệu đồng/lượng hồi đầu năm xuống còn xung quanh mức 41 triệu đồng/lượng.
Tuy vậy, vẫn chưa hết hy vọng nếu xét trên quy luật thời điểm tăng giá mấy năm gần đây khi giá vàng thế giới thường tăng tốc mạnh vào nửa cuối năm.
Có thể đưa ra con số so sánh, trong nửa đầu năm 2010, giá vàng chỉ tăng hơn 2 triệu đồng/lượng, từ mức 26,67 triệu đồng/lượng lên mức 28,71 triệu đồng/lượng, giá vàng thế giới cũng chỉ tăng 158 USD/oz.
Song, 6 tháng cuối của năm 2010, giá vàng đã tăng mạnh thêm 7,3 triệu đồng/lượng, đưa giá vàng trong nước lên mức 36 triệu đồng/lượng vào cuối năm, còn giá thế giới đạt 1.409 USD/oz.
Tương tự, năm 2011, giá vàng đã tăng rất mạnh trong nửa cuối năm. Nếu như đến cuối tháng 6/2011, giá vàng chỉ lên mức 37,86 triệu đồng/lượng, tăng 2,1 triệu đồng/lượng, thì nửa cuối năm, giá vàng trong nước tăng gần gấp 4 lần nửa đầu năm, thêm tới hơn 8 triệu đồng/lượng và đạt kỷ lục 46 triệu đồng/lượng.
Vàng thế giới trong nửa cuối năm 2011 cũng tăng 215 USD/oz lên mức 1.729 USD/oz, trong khi nửa đầu năm chỉ tăng 141 USD/oz.
Theo các chuyên gia kinh doanh vàng, một trong những yếu tố tác động làm giá vàng thường tăng vào cuối năm là do nhu cầu vàng giao ngay thường tăng vào quý IV của năm khi các nhà sản xuất nữ trang mua dự trữ chuẩn bị cho mùa cưới và các kỳ nghỉ lễ, đặc biệt tại Ấn Độ - nước tiêu thụ vàng nữ trang lớn nhất thế giới.
Trong khi đó, theo Hội đồng Vàng thế giới, vàng để làm nữ trang chiếm tới 73% nhu cầu về vàng giao ngay.
Ông Christoph Eibl, người sáng lập kiêm CEO của Quỹ đầu cơ hàng hóa cơ bản Tiberius (Thụy Sỹ), nhận định: sẽ thật bất ngờ nếu vàng lại không giữ được các mức giá cao trong một môi trường đầy bất ổn như hiện nay.
Và ông này cũng đưa ra dự báo, trong năm 2012, vàng sẽ là tài sản có sự thay đổi về giá tệ nhất trong số các kim loại.
Có thể nhận định này đúng, nếu như giá vàng trong những tháng cuối năm không tăng, thậm chí là giảm mạnh. Bởi trên thực tế, đôi khi quy luật của thị trường có thể thay đổi hoặc bị phá vỡ.
Chẳng hạn năm 2009, giá vàng thường tăng hoặc giảm “ăn theo” giá dầu thô. Tuy nhiên, trong 2 năm gần đây, các yếu tố tác động tới giá vàng còn do diễn biến chính trị, kinh tế trên thế giới.
Đặc biệt, các bối cảnh lạm phát toàn cầu cao, nhiều người dân trên thế giới đẩy mạnh mua vàng, ngoài ra Ngân hàng Trung ương của nhiều nước cũng mua vàng dự trữ làm cầu gia tăng.
Ông Trần Quốc Quýnh – Chuyên gia cao cấp của Hiệp hội Kinh doanh vàng (VGTA) cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, một số tổ chức quốc tế và chuyên gia vẫn đưa ra dự báo giá kết thúc năm 2012 vàng có thể không đạt mức 2.000 USD/oz nhưng vẫn đạt 1.800 – 1.900 USD/oz.
Đặc biệt, giới phân tích cũng đưa ra nhận định, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế, chỉ số việc làm của Mỹ chưa hồi phục, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có thể đưa ra gói kích thích kinh tế lần 3 (EQ3), và nếu gói này được thông qua vào tháng 9/2012 thì sẽ tạo cơ hội cho giá vàng tăng mạnh.
Hiện nay, đã có những tiết lộ khả năng 50 – 70% gói này được “duyệt” nên cũng chưa nóng vội chốt giá vàng vào thời điểm này. Và như vậy, giá vàng trong nước từ nay đến cuối năm cũng chưa hết hy vọng “thăng hoa”.

Tìm giải thích hợp lí cho: Vì sao Nokia thay đổi chiến lược phân phối ở Việt Nam?


Bình luận về việc Nokia thay đổi chiến lược phân phối tại Việt Nam, ông Võ Lê Tâm Thanh, chuyên viên phân tích thị trường, thuộc Nhóm nghiên cứu thiết bị người dùng thuộc hãng Nghiên cứu thị trường IDC bình luận, việc thay đổi hay chấm dứt hợp đồng đối với một hay nhiều nhà phân phối của một hãng là điều bình thường trong kinh doanh. Sự thay đổi này đến từ chiến lược cấu trúc lại mô hình phân phối của hãng, cũng có thể đến từ việc thay đổi trong chiến lược kinh doanh của chính nhà phân phối đó.

Kể từ ngày 5/8 tới, Nokia sẽ chính thức ngừng việc hợp tác phân phối sản phẩm với Công ty cổ phần Dịch vụ Phân phối Dầu khí (PSD), nhà phân phối đã từng có giai đoạn nắm giữ trên 40% thị phần phân phối sản phẩm của Nokia tại Việt Nam.
Hãng điện thoại Phần Lan này sẽ chỉ giữ lại hai nhà phân phối tại Việt Nam là Chi nhánh Công ty TNHH Phân phối công nghệ viễn thông FPT (TP. Hà Nội) và Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thiết bị viễn thông May Mắn (Lucky). Cụ thể, FPT phụ trách miền Bắc và Bắc Trung bộ, Lucky phụ trách miền Nam và Nam Trung bộ.

Đây không phải lần đầu tiên, Nokia thay đổi chiến lược phân phối tại Việt Nam trong vòng hơn 1 năm qua. Đầu năm 2011, Nokia cũng thay đổi chiến lược phân phối thông qua việc khoanh vùng lại địa bàn phân phối đối với các nhà phân phối Việt Nam. Theo đó, thay vì được phép phân phối và cạnh tranh trên phạm vi toàn quốc, mỗi nhà phân phối tại Việt Nam của Nokia chỉ được phép phân phối sản phẩm tại một khu vực nhất định. Cụ thể là, FPT phân phối sản phẩm tại khu vực từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc, hai nhà phân phối còn lại là Lucky và PSD phụ trách khu vực từ Đà Nẵng trở vào phía Nam.

Lý giải cho việc thay đổi chiến lược phân phối của Nokia tại Việt Nam, ông William Hamilton-Whyte, Phó chủ tịch Nokia Đông Dương và Philippines cho biết, ngành công nghiệp di động và thị trường điện thoại di động đã phát triển rất nhanh, do vậy, việc ngừng hợp đồng với PSD sẽ hỗ trợ Nokia đẩy mạnh chiến lược tập trung cũng như cải tiến quy trình vận hành.

Bình luận về việc Nokia thay đổi chiến lược phân phối tại Việt Nam, ông Võ Lê Tâm Thanh, chuyên viên phân tích thị trường, thuộc Nhóm nghiên cứu thiết bị người dùng thuộc hãng Nghiên cứu thị trường IDC bình luận, việc thay đổi hay chấm dứt hợp đồng đối với một hay nhiều nhà phân phối của một hãng là điều bình thường trong kinh doanh. Sự thay đổi này đến từ chiến lược cấu trúc lại mô hình phân phối của hãng, cũng có thể đến từ việc thay đổi trong chiến lược kinh doanh của chính nhà phân phối đó.

Tuy nhiên, theo ông Thanh, thị trường điện thoại Việt Nam hiện nay đang có sự cạnh tranh không những ở phân khúc giá rẻ mà còn diễn ra ở các dòng điện thoại thông minh. Trong khi đó, Nokia lại đang giữ thị phần khá lớn tại Việt Nam. Vì thế, để chia sẻ miếng bánh thị trường điện thoại di động tại Việt Nam thì Nokia sẽ là mục tiêu đầu tiên mà các hãng khác nhắm tới.

Còn theo một lãnh đạo của FPT, việc thay đổi chiến lược phân phối của Nokia, là do hãng gặp phải cạnh tranh rất lớn từ các hãng điện thoại khác tại thị trường Việt Nam.

Theo số liệu thống kê của IDC công bố mới đây, Nokia hiện vẫn là hãng điện thoại chiếm thị phần lớn nhất tại Việt Nam. Quý I/2012, hãng này chiếm trên 50% thị phần điện thoại di động tại Việt Nam. Nokia có được thị phần này là nhờ vào dòng điện thoại 2 SIM với chi phí thấp, tuy nhiên, đây lại là phân khúc sản phẩm đang cạnh tranh khốc liệt tại thị trường Việt Nam. 

Bên cạnh đó, giống như các hãng điện thoại khác, Nokia đang vấp phải sự sụt giảm về doanh số do sức mua của thị trường yếu. Theo thống kê của hệ thống bán lẻ điện thoại Thegioididong.com vừa công bố, trong 6 tháng đầu năm, tổng số điện thoại nhập khẩu vào Việt Nam giảm 23,72% về số lượng so với cùng kỳ năm 2011, tương đương với con số 6,26 triệu máy. Trong đó, tính riêng tại thegioididong.com, trong tháng 6/2012, lượng điện thoại bán ra giảm 2% so với tháng 5.

Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Mercedes, BMW và Audi: Ai là số 1?

Audi vẫn đang giữ vị trí số 1 tại Trung Quốc - thị trường xe hơi hạng sang “nóng” nhất hiện nay. Trong tháng 5-2012, tại thị trường này, Audi tăng trưởng tới 44% so với tháng 4 (tổng cộng 36.278 xe đã được tiêu thụ), trong khi BMW tăng trưởng 32% (27.815 xe) còn Mercedes chỉ tăng 1% (16.529 xe).
Audi A4 - một trong những mẫu sedan hạng sang bán chạy nhất ở Trung Quốc
Ở Việt Nam, Mercedes chiếm hơn 60% thị phần phân khúc xe hạng sang (luxury car). Ở Trung Quốc, BMW đang bám đuổi Audi ở vị trí số 1 trong thị trường xe du lịch cao cấp.
Tại nước Đức quê hương thì Mercedes vẫn là “anh cả”, lấn lướt hai đối thủ BMW và Audi cả về truyền thống lịch sử lẫn doanh số. Tuy nhiên, theo kết quả thống kê doanh số bán hàng trên toàn cầu năm 2011, BMW lại là người đứng đầu.
Phân chia lãnh thổ
Cũng vẫn thương hiệu ấy nhưng sự phổ biến của nó ở các thị trường trên thế giới có thể rất khác nhau vì phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố, từ yếu tố chủ quan của nhà sản xuất như chiến lược thị trường, chiến lược đầu tư… đến các yếu tố khách quan như văn hóa bản địa, thị hiếu người tiêu dùng ở từng khu vực…
Lexus là một ví dụ khá tiêu biểu của sự thành công và không thành công trên những thị trường khác nhau. Trước khi gặp khủng hoảng đồng thời với cuộc khủng hoảng của Toyota tại Mỹ với sự cố thu hồi xe hàng loạt, Lexus có 17 năm đứng vị trí số 1 trong phân khúc xe hạng sang tại thị trường Mỹ, qua mặt cả ba “ông lớn Đức”. Vậy mà thương hiệu ấy lại không thuyết phục được khách hàng châu Âu, còn lúc trở về chính quốc thì gặp phải sự thờ ơ của người tiêu dùng Nhật Bản.
Ở Việt Nam, sự thâu tóm thị trường xe hơi cao cấp của Mercedes có lẽ nhờ ở một yếu tố rất quan trọng là thương hiệu xe cao cấp này có nhà máy lắp ráp đặt tại TP.HCM. Giá thành các sản phẩm lắp ráp vì thế có sức cạnh tranh rõ ràng so với nhiều đối thủ cùng hạng.
Đơn cử là giá bán chiếc Mercedes GLK lắp ráp trong nước chỉ tương đương giá của BMW X1 hay Audi Q3, trong khi xét về chuẩn mực, GKL phải được so sánh với BMW X3 hoặc Audi Q5 nhập khẩu nguyên chiếc. Ngoài ưu thế về giá, xe Mercedes ở Việt Nam còn được hỗ trợ năng lực cạnh tranh nhờ hệ thống dịch vụ và hậu mãi được đầu tư khá sớm, có quy mô và bài bản hơn so với các đối thủ.
Năm ngoái, Mercedes đã đạt doanh số bán hàng kỷ lục tại Việt Nam, tăng 23% so với năm 2010, chiếm 61% thị phần xe cao cấp. Tốc độ phát triển của Mercedes tại nước ta trong vài năm gần đây từng được TS Udo Loersch - nguyên Tổng giám đốc Mercedes-Benz Việt Nam đánh giá “còn hơn cả tốc độ phát triển của Mercedes tại Trung Quốc”!
Việt Nam có lẽ còn là thị trường phát triển với tốc độ tốt nhất của thương hiệu ngôi sao ba cánh này trong những năm qua vì nhìn tổng thể cả thị trường châu Á, doanh số của Mercedes bị thua kém cả BMW và Audi.
Theo bảng phân tích của trang thebusinesscloud.wordpress.com năm 2010, sự “phân chia lãnh thổ” theo thứ hạng từ 1 đến 3 của ba “ông lớn Đức” như sau:
Cụ thể, tại thị trường Đức (hiện là thị trường tiêu thụ xe hạng sang lớn thứ ba trên thế giới), Mercedes dẫn đầu, tiếp theo là BMW và Audi. Tại thị trường châu Âu (không kể Đức), BMW lại là thương hiệu mạnh nhất, tiếp theo là Audi, còn Mercedes xếp thứ 3.
Tại Bắc Mỹ, Audi tụt khá sâu sau BMW và Mercedes. Mặc dù dẫn đầu tại Trung Quốc - thị trường tiêu thụ xe sang lớn nhất hiện nay, nhưng Audi chỉ xếp thứ hai tại khu vực châu Á, đứng sau BMW.
Còn ở những khu vực thị trường khác ngoài các khu vực kể trên, Mercedes giành lại vị trí thượng phong, đẩy BMW xuống vị trí thứ ba.
Cuộc đua gang tấc
BMW X1 phiên bản mới cũng sẽ ra mắt vào mùa thu năm nay
Bảng xếp hạng nêu trên chỉ có tính chất tạm thời vì thứ hạng nhất - nhì - ba liên tục thay đổi theo từng tháng với những cuộc bứt phá quyết liệt của cả ba “chiến mã” và một phần phụ thuộc vào sự dịch chuyển của phân khúc xe hạng sang trên các thị trường mới.
Trên thị trường Mỹ, tháng 5/2012, Mercedes đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ, tới 18%, cụ thể là đã bán được 106.364 xe, vượt qua BMW (chỉ tăng 14% tương ứng với 104.799 xe), trở thành thương hiệu xe hạng sang bán chạy nhất trong tháng 5 tại Mỹ.
Theo các nhà phân tích thị trường, Mercedes hoàn toàn có khả năng soán ngôi số 1 trên phân khúc xe hạng sang tại thị trường quan trọng này từ tay BMW, tùy thuộc vào tốc độ tăng trưởng của các model SUV.
Mercedes mới đây đã cho ra mắt phiên bản mới của chiếc SUV hạng trung M-Class và vào tháng 8 tới, các showroom xe của Mercedes tại Mỹ sẽ giới thiệu phiên bản mới của chiếc GLK (dự kiến tháng 10 năm nay sẽ cómặt tại Việt Nam).
Tiếp theo, trong tháng 9 sẽ xuất hiện chiếc SUV cỡ lớn GL phiên bản mới. Sự thành công hay thất bại của những chiếc SUV phiên bản mới được dồn dập tung ra vào nửa cuối năm nay sẽ quyết định vị trí của Mercedes trong phân khúc xe hạng sang tại thị trường Mỹ.
Tất nhiên, họ cũng đang phải để mắt tới phiên bản 3 Series mới (dẫn động hai cầu) cùng phiên bản mới của chiếc X1 sẽ được BMW tung ra thị trường Mỹ vào mùa thu năm nay.
Audi vẫn đang giữ vị trí số 1 tại Trung Quốc - thị trường xe hơi hạng sang “nóng” nhất hiện nay. Trong tháng 5-2012, tại thị trường này, Audi tăng trưởng tới 44% so với tháng 4 (tổng cộng 36.278 xe đã được tiêu thụ), trong khi BMW tăng trưởng 32% (27.815 xe) còn Mercedes chỉ tăng 1% (16.529 xe).
Như vậy, cộng dồn năm tháng đầu năm 2012, riêng tại Trung Quốc, Audi đã tiêu thụ được 160.562 xe (tăng 42%), gần gấp đôi doanh số của Mercedes (82.534 xe, tăng gần 9%).
Tuy vậy, ngay ở thị trường tốt nhất này, Audi cũng đang ngửi thấy “mùi khói” của BMW quẩn quanh đâu đó khi đối thủ này cũng tăng trưởng tới 34% trong năm tháng đầu năm, tiêu thụ được 125.800 xe.
Mercedes GLK mới sẽ có mặt tại thị trường Mỹ vào tháng 8 này
Sự ra mắt của phiên bản 3 Series hoàn toàn mới tại Trung Quốc đã giúp BMW tăng tốc, đuổi sát hai mẫu xe sedan bán chạy của Audi là A4 và A6.
Cả BMW và Mercedes đều mới công bố doanh số bán hàng trong tháng 6/2012, theo đó BMW đang tràn trề hy vọng lập kỷ lục mới về doanh số bán hàng toàn cầu trong năm 2012, bất chấp tình hình kinh tế khó khăn khiến cho thị trường xe hơi trượt dốc tồi tệ tại khu vực châu Âu.
Doanh số bán hàng của BMW trong tháng 6 vừa qua (bao gồm BMW, Mini và Rolls-Royce) đạt 172.516 xe các loại, trong đó thị trường Mỹ tăng trưởng 3,2% trong tháng 6 và tăng 10,5% trong sáu tháng đầu năm, còn thị trường Trung Quốc tăng 13,1% trong tháng 6 và tăng tới 30,7% trong sáu tháng đầu năm.
“Chúng tôi sẽ đạt doanh số kỷ lục trong năm2012” - ông Ian Robertson, Giám đốc bán hàng và thị trường của BMW tự tin khẳng định. Mercedes tăng trưởng 0,9% trong tháng 6 vừa qua, bán được121.542 xe các loại trên thị trường toàn cầu. Như vậy mức tăng trưởng trong sáu tháng đầu năm của thương hiệu này cũng đạt 6,9%.
Nửa năm còn lại có những mùa bán hàng quan trọng và chúng có thể thay đổi hoàn toàn cục diện của cuộc đua tam mã. Năm 2011, lượng xe bán ra trên toàn cầu của BMW đạt 1,38 triệu chiếc, hơn Audi ở vị trí thứ 2 chỉ chưa đầy 80 ngàn chiếc, trong khi doanh số của Mercedes là 1,26 triệu chiếc.
Bloomberg dự báo đến năm 2015, BMW sẽ đạt mức tiêu thụ khoảng 1,76 triệu xe, Mercedes vươn lên con số 1,68 triệu xe để trở thành hãng sản xuất xe hơi hạng sang lớn thứ 2 thế giới, đẩy Audi xuống vị trí thứ 3 với 1,63 triệu xe.
Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là một dự báo. Cũng nên biết thêm rằng Audi cùng tham vọng của cả Tập đoàn Volkswagen A.G không hề giấu ý định “thống trị thế giới” với mục tiêu đến năm 2020 sẽ đạt doanh số bán hàng tròn 2.000.000 chiếc Audi trên toàn thế giới.

Vì sao có chuyện Vỡ liên kết, chết con tôm?

Tuy nhiên, chỉ trong 3 tháng đầu năm, sản lượng thu hoạch ở Thái Lan lên đến 130.000 tấn. So với năm 2011 là 110.000 tấn đã tăng khoảng 20%. Tương tự, thu hoạch tôm ở Ấn Độ cũng đang đạt sản lượng rất cao. Thị trường thế giới bị “dội chợ”, không có nhiều đơn đặt hàng, dẫn đến việc thương lái thu mua cũng chẳng mặn mòi. 
Chết - treo ao
Sáu tháng nay, người nuôi tôm ở Tuy Phong, Ninh Thuận “treo ao” dù diện tích nuôi tôm ở đây rất lớn. Triệu chứng tôm chết khi chỉ mới thả chừng 5 đến 10 ngày khiến các hộ nuôi tôm không thể tiếp tục duy trì sản xuất. Theo nhiều đại lý phản ánh, tỷ lệ chết tôm ở Ninh Thuận lên đến hơn 70%, hàng loạt các trại tôm có nguy cơ mất trắng. 

Không chỉ ở địa bàn Ninh Thuận, ông Yuttana Thonphur, Phó tổng giám đốc cấp cao Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam, cho biết, dịch bệnh tôm chết sớm(EMS) xuất phát từ Trung Quốc, lan sang hầu hết các địa bàn nuôi tôm ở Việt Nam suốt 6 tháng qua. Ví dụ, Sóc Trăng có 17.000ha chiếm72%diện tích thả nuôi bị nhiễm bệnh, Trà Vinh có 7.700ha, chiếm 35%... 

Mới đây, Malaysia và Thái Lan cũng chịu chung số phận. “Năm vừa qua, trong 100 ao nuôi tôm thì có đến 80 ao bị chết”, ông Nguyễn Văn Dương, Giám đốc Công ty TNHH Thủy sản Hải Dương, kể. Nếu tính đến việc thả lại sau khi chết rồi lại bị chết thì tỷ lệ thiệt hại lên đến hơn 100%. Theo ông Dương, trong suốt 10 năm qua, đây là năm mà ngành nuôi tôm chịu thiệt hại nặng nề nhất. 

Tuy nhiên, theo ông Dương, người nuôi vẫn có thể khắc phục bằng cách chủ động chăm sóc tôm, chú ý môi trường sống lúc tôm còn nhỏ. Nhờ biện pháp này mà Công ty Hải Dương đã nuôi lại thành công 100 ao của mình. 

Sống - mất giá 

Khác với quy luật mất mùa - giá tăng cao, việc nuôi tôm năm nay được định danh là khó chồng khó. Bởi, nếu tôm không chết, thu hoạch tốt thì giá vẫn thấp hẳn so với mọi năm. 

Ông Cao Văn Lộc, chủ đại lý thức ăn Cao Văn Lộc cho biết, nếu như mọi năm, tôm loại 40 con/kg, thương lái thu vào được khoảng 170.000 đồng/kg thì năm nay, giá thu mua chỉ được khoảng 100.000 đồng. Tính ra, với một ao tôm thu được 3 - 4 tấn thì trung bình, người nuôi mất khoảng 200 triệu đồng. 

Thêm vào đó, nguồn kinh phí đầu tư cho thuốc nuôi tôm tăng cao người dân phải chủ động phòng ngừa. Theo ông Sommas Soontornkit, Tổng giám đốc ngành Thủy sản, CP Việt Nam, tôm Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu, tiêu thụ trong nước chỉ chừng 30% sản lượng nên chịu ảnh hưởng bởi các thị trường khác rất lớn. 

Tuy nhiên, chỉ trong 3 tháng đầu năm, sản lượng thu hoạch ở Thái Lan lên đến 130.000 tấn. So với năm 2011 là 110.000 tấn đã tăng khoảng 20%. Tương tự, thu hoạch tôm ở Ấn Độ cũng đang đạt sản lượng rất cao. Thị trường thế giới bị “dội chợ”, không có nhiều đơn đặt hàng, dẫn đến việc thương lái thu mua cũng chẳng mặn mòi. 

“Quan trọng hơn là vì ngại bệnh dịch, người nuôi tôm chọn giải pháp an toàn ùn ùn “bán ao non” chứ không chờ tôm đạt kích cỡ tối đa mới bánnhư mọi năm”, nhiều đại lý phản ánh. Thu hoạch sớm, lại đồng loạt nên thương lái ép giá cũng là điều dễ hiểu. 

Nợ chồng lên nợ 


Tôm chết, người nuôi lâm vào thế khó nhưng quan trọng hơn hết là hậu quả không dừng lại ở người nuôi mà còn lan rộng. Hiện mối quan hệ giữa công ty sản xuất thức ăn - đại lý phân phối - người nuôi đang được tổ chức theo hình thức nợ chồng nợ. Vì phải đầu tư thức ăn trước cho người nuôi nên hơn 80% vốn của đại lý là nằm trong các ao nuôi của người dân. Nếu người nuôi thua, hoặc huề vốn, đại lý thức ăn cũng cầm chắc mất vốn. 

Vì điều này mà thời gian qua, việc kinh doanh của các đại lý rơi vào thế khó do không thể đổ thêm đầu tư để xoay vòng vốn. Người khác nuôi nhưng rủi ro là của mình. Ở chiều khác, vốn của công ty sản xuất thức ăn thì nằm trong công nợ của các đại lý. Tuy nhiên, dù nợ vẫn đang tồn đọng từ phía người nuôi và việc nuôi hơn 10 ao tôm những tháng qua cũng đã khiến ông mất hơn 500 triệu đồng nhưng đại lý Sơn Tùng, Bình Đại, Bến Tre, lại tỏ ra khá lạc quan với tình hình hiện đại.

Người nuôi đang tin vào quy luật của chu kỳ hình sin, khi ngành chăn nuôi tôm chạm đáy khó, nhiều người treo ao thì lại là cơ hội dành cho những người “dai sức”. “Từ nay đến cuối năm, nếu có đủ vốn, tôi sẽ thuê lại những ao đang bị treo để đầu tư cho mùa mới. Cơ hội luôn tồn tại trong khó khăn”, ông Tùng chia sẻ.

Chia sẻ cùng bạn vấn đề bán chợ xa, mua siêu thị gần

Bên cạnh đó, chuỗi cửa hàng tiện ích các đơn vị: Co.op Food, Satrafood, Foodcomart, Vissan, Citimart... cũng được nâng lên 562 cửa hàng. Loại hình này đang phát triển nhanh chóng tại các khu dân cư, chung cư, khu công nghiệp, các khu vực xa trung tâm, góp phần phục vụ tốt nhu cầu mua sắm, tiêu dùng hàng hóa cho người dân. 
Siêu thị “ăn” chợ 

Theo ông Hoàng Trọng, Giám đốc Nghiên cứu Công ty tư vấn The Pathfinder, mặc dù cả nước có 590 siêu thị nhưng con số này mới chỉ chiếm 1/20 so với kênh bán lẻ truyền thống. Tuy nhiên, kênh phân phối hiện đại này có mức tăng trưởng nhanh chóng trong những năm gần đây và đạt mức bình quân khoảng 27%/năm.
Ba hệ thống siêu thị có số điểm bán hàng tăng nhanh nhất hiện nay là Co.opmart, Vinatexmart và Big C. Trong đó, Co.opmart có 59 siêu thị, tốc độ tăng trưởng cao hơn 35% so với năm 2010.
Vinatexmart có 74 siêu thị tổng hợp và chuyên doanh với tốc độ tăng trưởng bình quân trong 3 năm gần đây là 28%. Big C có 19 siêu thị và đơn vị được đánh giá là đối thủ cạnh tranh quyết liệt nhất của các siêu thị trong nước. 

Nghiên cứu của The Pathfinder cho thấy, dù chợ truyền thống vẫn là nơi mua thực phẩm chính với 69% nhưng tỷ lệ mua ở siêu thị tăng lên nhanh chóng với 27%. Ba yếu tố chính khiến người tiêu dùng cho mua thực phẩm ở siêu thị là vệ sinh, an toàn; hàng tươi, ngon và giá cả hợp lý.
Số liệu nghiên cứu thị trường tại TP.HCM còn cho thấy, người tiêu dùng thành phố đã tăng mức chi mua hàng trong siêu thị từ 627.000 đồng/năm (năm 2005) lên mức trên 1,419 triệu đồng/năm (năm 2010) và gần 1,5 triệu đồng (năm 2011).
Kết quả khảo sát trên 1.000 người tại TP.HCM cho thấy, 80% số người có thói quen đi siêu thị mua sắm mỗi tuần so với mức 12% cách đây 10 năm. Tính đến ngày 31/12/2011, TPHCM có 140 siêu thị, 25 trung tâm thương mại chuyên và đa ngành hiện đại, hơn 500 cửa hàng tiện ích và hàng chục ngàn cửa hàng tạp hóa các loại.
Tính trên giá trị, kênh mua sắm hiện đại (gồm trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích, siêu thị) tại TP.HCM đã đạt khoảng 35% doanh thu bán lẻ, tăng hơn gấp 2 lần so với mức 15% năm 2007, cao hơn mức bình quân 20%-22% của cả nước. Doanh thu hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại tăng bình quân 19-27%/năm.

Ông Bùi Đức Huệ, Giám đốc Công ty Phân phối Sao Việt, đánh giá cao tính hiệu quả và tiềm năng của siêu thị trong thời gian tới. Công ty Giấy Sài Gòn là ví dụ khá điển hình về vai trò của kênh bán hàng siêu thị đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Thị phần của Giấy Sài Gòn chưa tới 5% trong thị trường giấy tiêu dùng và kênh siêu thị đóng góp 4,5% trong tổng doanh số. Thế nhưng, đến năm 2011, thị phần của Giấy Sài Gòn đã tăng lên 26,5% trong thị trường giấy tiêu dùng và kênh siêu thị đóng góp 25% trong tổng doanh số của công ty (số liệu từ Nielsen Vietnam). Chi phí cho kênh siêu thị của Giấy Sài gòn chỉ chiếm 1/3 so với kênh truyền thống nhưng mang đến hiệu quả cao gấp 2,5 lần so với kênh truyền thống. 
Tiến lên hiện đại
Theo Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, hiện cả nước có đến hơn 9.000 chợ trong khi chỉ có 590 siêu thị. Dù số lượng khá nhỏ so với kênh truyền thống nhưng hiệu quả mà kênh bán hàng hiện đại mang lại không hề nhỏ.
Năm 2011, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cả nước đạt 1.650.000 tỷ đồng, riêng kênh bán hàng hiện đại (siêu thị, cửa hàng tiện lợi) đã đạt 111.472 tỷ đồng. Dự kiến, năm 2012, doanh thu từ kênh bán hàng hiện đại sẽ đạt 129.402 tỷ đồng. 

Chính tiềm năng cũng như xu hướng tiêu dùng đang thay đổi nên cơ quan quản lý Nhà nước phát triển ngành bán lẻ theo hướng ưu tiên cho kênh hiện đại.
Trong cuộc họp cuộc họp rà soát, bổ sung điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống chợ - siêu thị - trung tâm thương mại trên địa bàn thành phố giai đoạn 2009-2015, Sở Công Thương TP.HCM, cho biết, tính đến tháng 4/2012, trên địa bàn thành phố có 243 chợ, giảm 6 chợ so thời điểm năm 2009, bao gồm 17 chợ loại 1, 48 chợ loại 2 và 178 chợ loại 3.
Trong khi đó, thành phố có 163 siêu thị, tăng 71 siêu thị so thời điểm năm 2009. Theo Sở Công Thương, trong 3 năm tới, thành phố sẽ phát triển 240 siêu thị, tăng 77 siêu thị so với hiện nay.
Bên cạnh đó, chuỗi cửa hàng tiện ích các đơn vị: Co.op Food, Satrafood, Foodcomart, Vissan, Citimart... cũng được nâng lên 562 cửa hàng. Loại hình này đang phát triển nhanh chóng tại các khu dân cư, chung cư, khu công nghiệp, các khu vực xa trung tâm, góp phần phục vụ tốt nhu cầu mua sắm, tiêu dùng hàng hóa cho người dân. 

Trong khi đó, các siêu thị cũng công bố sẽ tiếp tục đẩy mạnh, đầu tư, mở rộng hệ thống phân phối của mình. Tổng giám đốc Hệ thống siêu thị Vinatexmart Dương Thị Ngọc Dung, cho biết, hệ thống Vinatexmart hiện có 74 siêu thị, bình quân mỗi tháng khai trương 3 siêu thị mới và từ đầu năm đến nay đã có 12 siêu thị đi vào hoạt động.
Công ty đang phấn đấu đến cuối năm nay phát triển hệ thống Vinatexmart lên 90 siêu thị và điểm bán lẻ và mục tiêu đến năm 2015 là 204 điểm siêu thị Vinatexmart. Ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch HĐQT Saigon Co.op, cũng cho biết, năm 2011, Saigon Co.op đạt doanh số 16.000 tỷ đồng.
Năm 2012, Saigon Co.op quyết tâm đạt tiêu doanh thu cả năm đạt 21.000 tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2011, lợi nhuận tăng 15%. Cùng với việc tăng doanh số, Saigon Co.op sẽ khai trương thêm tối thiểu 8 Co.opMart và 30 Co.op Food trong cả nước.